Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn có vị trí chiến lược, quan trọng đối với Quân khu 4 và của cả nước; là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Bởi vậy, nơi đây trở thành một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Những đóng góp của quân và dân Hà Tĩnh trên mặt trận giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-1972) đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Hà Tĩnh là một vùng đất nhỏ hẹp, có địa hình rất đa dạng và phức tạp; đồi núi chiếm 80% diện tích toàn tỉnh; hệ thống sông ngòi khá dày đặc và đều có đặc điểm chung là chiều dài ngắn, các sông chính có độ dài hơn 500km; ngoài ra, có rất nhiều nhánh sông nhỏ, bao gồm cả sông tự nhiên và sông đào. Với đặc điểm đó, giao thông ở Hà Tĩnh dễ bị chia cắt, nhất là khi gặp các tình huống bất lợi xảy ra như mưa gió, bão lụt hoặc khi bị địch đánh phá.
Hà Tĩnh là huyết mạch giao thông quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với miền Bắc, quân và dân Hà Tĩnh bắt tay vào khôi phục lại hệ thống giao thông cũ hoặc bị hư hỏng do chiến tranh. Trong vòng 10 năm xây dựng hòa bình (1954 - 1964), với sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, Hà Tĩnh đã tiến hành nhiều biện pháp góp phần khôi phục, sửa chữa và làm mới các đường giao thông trong tỉnh. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt bắt đầu được sửa chữa tương đối hoàn chỉnh; các phương tiện vận tải và nguồn nhân lực, vật lực khá dồi dào. Tuy nhiên, với điểm xuất phát thấp của nền kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải, nhất là đường sắt chưa được khôi phục toàn diện, đường thủy thì mới khai thác được một số đoạn trong mùa nước ổn định, còn phần lớn sông hẹp và cạn, luồng lạch chưa được nạo vét. Trong khi đó, các tuyến đường bộ tuy có phát huy được vận chuyển, nhưng vẫn còn nhiều điểm yếu kém như: đường thường độc tuyến, nền đường thấp, mặt đường hẹp, cầu trọng tải nhỏ, nhiều sông suối cắt ngang, lại đi qua nhiều eo núi, đồng trũng. Cầu cống phần lớn làm tạm, tải trọng thấp, mật độ cầu cống lớn. Chỉ tính riêng trên các trục đường chính với tổng chiều dài 275km, đường số 1, 8, 15 đã có 178 chiếc cầu cống lớn nhỏ với chiều dài 2.123 mét, bình quân 1 km đường bộ có 7,5 cầu cống(1). Điều đó cho thấy, rất khó khăn cho công tác bảo đảm giao thông vận tải khi có thiên tai, địch họa xảy ra. Hơn nữa, trình độ tổ chức, chỉ huy điều hành, lực lượng, phương tiện kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Tính đến cuối năm 1964, số kỹ sư và nhân viên kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh Hà Tĩnh chỉ có khoảng trên 10 người, cùng với khoảng 47 chiếc ô tô vận tải, 327 tàu thuyền, lượng vật tư kỹ thuật dự phòng của ngành giao thông vận tải rất mỏng(2).
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đứng trước nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam; đồng thời, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong tháng 2 và 3/1965, với các chiến dịch “Mũi lao lửa” và “Sấm rền”, đế quốc Mỹ đã sử dụng hàng trăm chiếc máy bay đánh phá vào Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ An. Riêng Hà Tĩnh trong ngày 23/3/1965, Mỹ đã huy động 8 máy bay chia thành 3 hướng đến ném bom, bắn tên lửa xuống trạm quan sát hải quân, đồn 112 công an vũ trang. Tiếp đến, ngày 26/3/1965, Mỹ lại sử sụng 26 chiếc máy bay, chia thành nhiều tốp từ hướng tây lao xuống bắn phá núi Nài và khu vực xung quanh. Đầu tháng 4/1965, máy bay Mỹ chuyển sang đánh phá các mục tiêu giao thông vận tải, kinh tế và dân cư. Ngày 10/4/1965, máy bay Mỹ đánh sập cầu Nước Sốt trên đường số 8. Đây là chiếc cầu bị đánh hỏng đầu tiên ở Hà Tĩnh trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ ngày 10/4 đến ngày 7/7/1965, máy bay Mỹ đánh vào toàn bộ cầu, cống trên các tuyến đường số 1, số 8 và số 15 ở Hà Tĩnh. Đến ngày 25/10/1965, toàn bộ hệ thống cầu (trừ Đò Trai) và cống lớn trên các đường quốc lộ và tỉnh lộ Hà Tĩnh đều bị đánh hỏng.
Thấy rõ những nhược điểm của hệ thống giao thông vận tải và những thiệt hại do đế quốc Mỹ gây ra, Tỉnh ủy Hà Tĩnh chú trọng làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm giao thông vận tải. Trong hai ngày 17 và 18/5/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh ủy mở rộng bàn chuyên đề về công tác bảo đảm giao thông vận tải. Hội nghị khẳng định: “Bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ trung tâm số 1 của Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh; dù có hi sinh đổ máu cũng phải đảm bảo được giao thông vận tải; tìm mọi biện pháp để thông đường, thông xe”(3). Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Tỉnh ủy ra nghị quyết thành lập Đảng ủy Tỉnh đội, quyết định thành lập Ban đảm bảo giao thông vận tải ở các cấp do đồng chí Chủ tịch Ủy ban Hành chính làm Trưởng ban; đồng thời, thành lập lực lượng thanh niên xung phong và các đội chủ lực giao thông ở các huyện làm lực lượng cơ động, bảo đảm giao thông vận tải trên các địa bàn trọng yếu; bổ sung một số đồng chí vào Thường vụ Tỉnh ủy, điều động một số cán bộ tăng cường cho ngành giao thông vận tải. Trên cơ sở đó, tháng 6/1965, Tổng đội thanh niên xung phong 25 được thành lập vào chiến trường miền Nam phục vụ trực tiếp cho chiến đấu; tiếp đó, các tổng đội thanh niên xung phong 55 và 53 cũng được thành lập.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Được sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ban đảm bảo giao thông ở các cấp, lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ở Hà Tĩnh có bước phát triển về mọi mặt. Các công ty cầu, công ty vận tải ô tô, công ty vận tải đường biển, đường sông, các xí nghiệp đóng tàu, thuyền, phà phao được củng cố và thành lập. Về tổ chức chỉ đạo, Tỉnh lập ra các Ban bảo đảm giao thông vận tải từ tỉnh đến huyện, xã để giúp cho cấp ủy, chính quyền tổ chức, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải theo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh. Ban Thường vụ là cơ quan thường trực của cấp ủy các cấp trực tiếp theo dõi, nắm chắc tình hình diễn biến của từng địa phương, đơn vị, đưa ra các phương án chỉ đạo kịp thời. Ngành giao thông vận tải Hà Tĩnh được kiện toàn, bổ sung đủ cán bộ chủ trì, cán bộ chuyên môn kỹ thuật; đồng thời, tổ chức thêm lực lượng xung kích trong công tác giao thông vận tải, gồm: Hai tổng đội thanh niên xung phong, 15 đại đội chủ lực giao thông ở các huyện, 4 đơn vị sản xuất công cụ bảo đảm giao thông, với quân số hơn 1 vạn người. Ngoài ra, ngành còn mở rộng, tăng cường thiết bị, vật tư, quân số cho xí nghiệp sửa chữa ô tô, để giải quyết phương tiện chủ yếu cho công tác đảm bảo giao thông vận tải(4). Bộ giao thông vận tải chi viện cho Hà Tĩnh máy công cụ, vật tư phương tiện, cán bộ, các công nhân viên kỹ thuật lành nghề để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh.
Từ ngày 8 – 10/10/1965, Ban Chấp hành Tỉnh họp Hội nghị bàn về nhiệm vụ đánh địch. Nhận định về âm mưu của địch, Hội nghị nêu rõ: “Âm mưu sắp tới của chúng sẽ đánh phá với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn”(5); do đó, đề ra nhiệm vụ cho quân và dân Hà Tĩnh phải luôn luôn đề cao cảnh giác, phát huy khí thế chiến thắng, tăng cường công tác phòng thủ trị an, tiếp tục đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Hội nghị đi đến quyết định tổ chức và phát động rộng rãi phong trào toàn dân làm giao thông vận tải; đề nghị Trung ương chi viện để mở thêm các tuyến đường ở phía nam và tây nam.
Cũng trong thời kỳ này, do địch tập trung đánh phá cầu cống và các bến sông, bến phà, tạo nên những điểm tắc nghẹn trên các tuyến giao thông… Do vậy, công tác vượt sông được xác định là nhiệm vụ đột xuất số 1 trên mặt trận bảo đảm vận tải. Để có đủ phương tiện, vật tư đảm bảo vượt sông, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh giao cho Ngành Giao thông vận tải nghiên cứu đóng phà phao; ngành Lâm nghiệp cung cấp gỗ và các vật liệu khác; Ban chỉ huy Tỉnh đội, trực tiếp là Ban chỉ huy Công binh, điều hành các bến phà. Mỗi bến phà có 1-2 trung đội đảm nhiệm, quân số nơi thấp nhất là 30 người, nhiều nhất là 80 người vừa làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, vừa thường trực chiến đấu đánh máy bay địch, bảo vệ hàng hóa, phương tiện vận tải, bến bãi. Ban đầu, các đơn vị tổ chức vượt sông bằng phương pháp kéo phà bằng tay, sau đó cải tiến làm cầu phao và có cầu dẫn ở hai đầu bến, bảo đảm xe có trọng tải lớn đi qua được an toàn thuận lợi, lúc địch đánh phá có thể tháo dỡ di chuyển cơ động nhanh. Khi cần vượt sông, việc lắp ghép cũng đơn giản, thuận tiện và phù hợp với điều kiện nước thủy triều lên xuống. Với phương pháp này, vừa mang lại hiệu suất cao, vừa bảo đảm an toàn, đỡ tốn sức lao động. Trước đây, một đêm phải huy động từ 10 - 15 người kéo phà, nay chỉ cần 5-7 người phụ trách ở hai đầu bến. Lưu lượng xe tăng gấp 4-5 lần so với thời gian trước(6). Với biện pháp này, lưu lượng qua phà mỗi đêm ở một bến từ 200 đến 400 chiếc tăng lên 400 - 450 chiếc. Thời gian một chuyến phà qua sông giảm đi 2 lần(7). Ngoài việc tổ chức giải quyết khâu vượt sông, tỉnh còn tổ chức lực lượng rà phá bom mìn, giải tỏa các trọng điểm và giải quyết tốt việc ứng cứu giao thông, như: san lấp hố bom, làm cầu vượt qua hố bom, đi đôi với sửa chữa cầu đường và làm thêm đường mới, đường vòng tránh, cứu xe, cứu hàng, gác đèn, điều chỉnh luồng lạch. Công tác bảo đảm giao thông vận tải được các địa phương thực hiện một cách triệt để và sáng tạo. Tiêu biểu là Kỳ Anh đã “sớm trở thành lá cờ đầu của tỉnh, của miền Bắc về công tác bảm đảm giao thông vận tải”(8).
Trong thời gian cuối tháng 12/1965, chớp thời cơ Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam trong vòng 36 ngày để hoàn thiện “thiện chí trong hòa bình”, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã phát động chiến dịch Quang Trung, huy động quân và dân ra sức làm giao thông vận tải. Đã có hơn 10 vạn lượt người, cùng các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy từ tỉnh đến xã ra mặt đường, vừa làm giao thông vận tải, vừa vui tết đón xuân. Tính chung trong vòng 1 tháng, quân và dân Hà Tĩnh đã nâng cấp, sửa chữa 75km đường cũ, đường tránh, củng cố làm mới thêm các bến vượt sông, vận chuyển vào Quảng Bình 14 vạn tấn và tiếp nhận từ phía Bắc đưa về tỉnh 3 vạn tấn hàng hóa.
Ngày 31/1/1966, không quân Mỹ đánh phá trở lại Hà Tĩnh. Từ cuối tháng 2 năm 1966, hải quân Mỹ dùng pháo trên các tàu chiến bắn vào đất liền. Các xã ven biển của huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh bị pháo kích thường xuyên. Mục đích đánh phá của hải quân Mỹ là uy hiếp tinh thần nhân dân các xã ven biển, đánh vào các trận địa pháo, cầu cống trên quốc lộ số 1. Với tinh thần cảnh giác cao độ, quân và dân Hà Tĩnh đã đánh trả nhiều trận đạt hiệu suất chiến đấu cao, đó là trận đánh ngày 24/3/1966 của cán bộ, chiến sĩ đồn 93 công an vũ trang; bắn cháy một chiếc tàu hộ tống trên vùng biển Can Lộc của Đại đội 444 Pháo binh ngày 24/4/1966; trận tiêu diệt 1 máy bay AD6 của Tiểu đoàn 61 ngày 27/4/1966; trận chiến đấu của đội dân quân trực chiến xã Đức Ninh (Đức Thọ) bắn rơi 1 máy bay của Mỹ ngày 18/8/1966. Như vậy, tính đến tháng 8/1966, quân và dân Hà Tĩnh “đã bắn rơi cộng tất cả 100 máy bay Mỹ”(9). Đó là một chiến thắng vẻ vang của quân và dân Hà Tĩnh trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ phá hoại.
Cùng với đó, được sự quan tâm giúp đỡ về lực lượng, phương tiện và vật tư của Bộ Giao thông vận tải, các tuyến đường 18, 21, 22, 23, 24, 28 lần lượt được thi công. Huyện Cẩm Xuyên mở đường từ cầu Na đi Cẩm Bình, Cẩm Huy, huyện Hương Khê mở đường Lộc Yên đi Hương Châu. Lực lượng tham gia mở đường có tổng đội thanh niên xung phong 53, 55 và các đơn vị chủ lực của ngành giao thông tỉnh. Ngoài ra, cấp trên tăng cường cho một tổng đội thanh niên xung phong Hà Nội, Hải Phòng, 1 đại đội xe máy, 2 tiểu đoàn công binh của Quân khu 4 và Đoàn 559. Công cuộc mở đường ở Hà Tĩnh còn có sự đóng góp của nhân dân toàn tỉnh. Do vậy, tiến độ thi công luôn luôn vượt kế hoạch, bất chấp mọi thủ đoạn đánh phá ác liệt của quân địch. Đến cuối năm 1966, các tuyến đường mới lần lượt thông xe, với tổng số chiều dài xấp xỉ bằng hai tuyến đường chính (quốc lộ 1 và 8) và các đường tỉnh lộ mà thực dân Pháp đã làm trong gần 100 năm. Việc đưa các tuyến đường mới, đường tránh vào sử dụng đã góp phần quan trọng tạo ra thế trận mới cho công tác bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Phát hiện ra những biến đổi trên tuyến giao thông ở Hà Tĩnh, nhất là ở phía nam và tây nam, đế quốc Mỹ đã thay đổi thủ đoạn đánh phá, chúng không đánh liên tục dài ngày vào các điểm xung yếu ở phía nam (Đèo Ngang, cầu Họ, cầu Trung, cầu Rác) và tây nam (Địa Lợi), mà chuyển sang đánh theo chu kỳ, khi tập trung đánh phía bắc, khi tập trung đánh phía nam. Trước thủ đoạn mới của Mỹ, do chưa phân tích, nắm bắt kịp thời quy luật hoạt động của không quân Mỹ, nên trong những tháng cuối năm 1966, Hà Tĩnh đã bị tổn thất về người, phương tiện, hàng hóa và nhà cửa.
Bước vào năm 1967, Bộ Chính trị ra Chỉ thị nhấn mạnh: “Năm 1967 là năm có tầm quan trọng lớn đối với địch cũng như đối với ta. Địch sẽ ra sức tăng cường lực lượng nhằm đánh nhanh thắng nhanh; ta phải cố gắng hơn nữa về mọi mặt, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định”(10). Đúng như dự kiến của ta, Mỹ bắt đầu đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân lên nấc thang cao hơn. Trong thời gian này, cùng với những thiệt hại do sự đánh phá của quân Mỹ, Hà Tĩnh còn phải chịu hậu quả nặng nề của thiên tai (đầu năm hạn hán nặng, cuối năm liên tiếp phải hứng chịu 3 cơn bão). Những khó khăn đó đã làm cho tuyến đường vận tải qua Hà Tĩnh bị ách tắc nghiêm trọng, nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, ngày 20/9/1967, Tỉnh ủy ra nghị quyết tập trung lực lượng quyết thắng giặc Mỹ trên tuyến giao thông vận tải, kịp thời khắc phục khó khăn, đưa Hà Tĩnh vượt qua nhiều thử thách.
Đầu tháng 1/1968, địch tập trung đánh phá cắt đứt đường số 1, đoạn từ Hạ Vàng vào Cổ Ngựa. Sau đó, tập trung máy bay đánh phá dồn dập vào Ngã ba Đồng Lộc, một trọng điểm có tính chất cửa ngõ. Trong vòng từ tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay của Mỹ đánh vào Đồng Lộc tổng cộng 1863 lần với trên 42.990 quả bom các loại. Tổng số lần đánh vào Đồng Lộc bằng tổng số lần đánh vào toàn tỉnh năm 1965, số bom đạn lớn gấp 2 lần. Bình quân 1 tháng, địch đánh 25 ngày; ngày đánh cao nhất 103 lần chiếc, ném 800 quả bom. Trước sự đánh phá quyết liệt của địch, nhận thức rõ vị trí chiến lược của Ngã ba Đồng Lộc, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương tập trung huy động lực lượng dồn sức cho Ngã ba Đồng Lộc để giải tỏa điểm chốt, giữ vững mạch máu giao thông chiến lược.
Chỉ sau một thời gian ngắn, tỉnh đã điều động một lực lượng lớn gồm 5 đại đội thanh niên xung phong, 3 đại đội chủ lực giao thông, 1 đội cầu, 1 đội xe cơ giới làm nhiệm vụ ứng cứu giải tỏa giao thông. Lực lượng chiến đấu gồm Trung đoàn pháo cao xạ 210 của Bộ và một bộ phận của Tiểu đoàn 30 công binh Quân khu, Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ của tỉnh, với quân số khoảng trên 16.000 người. Chưa kể còn có sự tham gia của các lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã Đồng Lộc, Quang Lộc, Mỹ Lộc, Thượng Lộc. Ban chỉ huy giải tỏa điểm chốt Đồng Lộc được thành lập. Các tổ quan sát bom, cầm tiêu, rà phá bom, ứng cứu cầu đường cùng với mạng lưới thông tin liên lạc, lực lượng điều hành phương tiện giao thông, giữ gìn trật tự an ninh tại khu vực Ngã ba Đồng Lộc được hình thành và bắt tay ngay vào công việc với mục tiêu “thông tuyến, thông xe nhanh nhất”. Công việc giải tỏa điểm chốt được tiến hành khẩn trương, với nhiều biện pháp đồng bộ, tích cực như: vừa đánh máy bay, vừa phát hiện, rà phá bom mìn, san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường; đồng thời, phát triển mở rộng thêm các tuyến đường mới, đường vòng tránh…
Do vậy, mặc dù bị địch tập trung đánh phá ác liệt và tàn bạo, nhưng giao thông vận tải ở Hà Tĩnh vẫn được giữ vững, bảo đảm cho tuyến chi viện chiến lược từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam thông suốt. Riêng ở Đồng Lộc, trong 7 tháng kiên cường bám trụ, quân và dân nơi đây đã hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi 19 máy bay Mỹ, phá 1.780 quả bom nổ chậm, bom từ trường; huy động 97.240 ngày công để san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường và làm thêm tuyến đường mới dài gần 6km, từ ngã ba Khiêm Ích qua Truông Kén đến Bãi Dĩa, làm thất bại hoàn toàn âm mưu cắt đứt con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam qua Đồng Lộc của đế quốc Mỹ. Trên trọng điểm ác liệt này, đã có nhiều tập thể, cá nhân nêu cao lòng dũng cảm không sợ hi sinh, như tập thể 10 cô gái thanh niên xung phong Tổng đội 55 đã hi sinh cho tuyến đường khi tuổi đời còn rất trẻ và nhiều tấm gương anh dũng hi sinh để bảo vệ thông suốt tuyến đường, chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Thành tích của nhân dân trong công tác bảo đảm giao thông vận tải thật to lớn và kỳ diệu. Trong 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), nhân dân Hà Tĩnh đã góp trên 20 triệu ngày công, đào lấp được 6,5 triệu m³ đất đá, cát sỏi, khai thác hàng chục vạn cây tre, gỗ, nứa, lấp 16.956 hố bom, làm 14 đường xuống bến phà dài 16,28km, đắp 163 đường tránh dài 122km, ghép đá làm 158 đường ngầm dài 18km, cứu 28.246 tấn hàng, 1.113 ô tô bị lún lầy, 428 ô tô bị cháy, 4.233 thuyền bị đắm(11). Con số đã nói lên sức mạnh to lớn của nhân dân Hà Tĩnh trong công tác phục vụ kháng chiến nói chung, bảo đảm giao thông vận tải nói riêng.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam, Bắc, trước sức ép của dư luận và nhân dân tiến bộ trên thế giới, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom đánh phá miền Bắc. Tranh thủ điều kiện hòa bình tạm thời, để thúc đẩy sản xuất, bảo đảm giao thông, ngay từ đầu năm 1969, Tỉnh ủy Hà Tĩnh phát động phong trào thi đua cùng “tiến quân ba mũi” (giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác, đào đắp thủy lợi nội đồng). Hưởng ứng phong trào, hơn 300 đội rà phá bom ra quân trên các tuyến giao thông và các cánh đồng đã thu được được kết quả lớn, giải phóng được hàng ngàn héc ta ruộng đất. Những cầu cống lớn, nhỏ trên đường 1A, 15A, đường số 8 được sửa chữa, nâng cấp; các điểm nút giao thông ở Thượng Gia, Cổ Ngựa, Đồng Lộc, Linh Cảm… được giải tỏa; toàn tuyến giao thông thủy bộ thông suốt. Với thành công này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vận tải của Trung ương và địa phương thực hiện chiến dịch vận tải VT5 giành thắng lợi giòn giã. Đã có hơn 132 ngàn tấn hành đi qua địa phận Hà Tĩnh chuyển giao cho Quảng Bình để từ đó tiếp tục đưa vào chiến trường miền Nam. Bên cạnh việc phục vụ chiến dịch VT5, Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh còn vận chuyển được gần 1.600 tấn hàng, huy động 534.625 ngày công phục vụ giao thông trên tuyến đường số 8 sang Lào.
Trong khi miền Bắc tạm thời có hòa bình, thì cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam diễn ra ngày càng ác liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ vội vàng “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh, đưa thêm một lực lượng lớn không quân, hải quân vào cuộc chiến, hòng chặn đứng cuộc tiến công của ta. Đúng một tuần sau khi ta mở màn cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Ở Hà Tĩnh, ngày 9/4/ 1972, Mỹ tập trung 180 lần chiếc máy bay đánh xuống cầu Thọ Tường, Cầu Họ và các chân hàng, kho trạm ở dọc đường 1A, 15A và đường số 8. Từ tháng 5 trở đi, chúng huy động hàng trăm tốp máy bay đánh mạnh vào các tuyến đường giao thông. Chỉ trong vòng 1 tháng, chúng đã đánh sập 14 cầu vừa làm lại trên quốc lộ 1A. Bên cạnh đó, chúng dùng thủy lôi phong tỏa cảng Xuân Hải, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu và các tuyến đường sông như sông Lam, La, Ngàn Sâu, Ngàn Phố; các bến phà Linh Cảm, Địa Lợi, Khe Giao… Đặc biệt cuối năm 1972, sau khi trúng cử tổng thống, Níchxơn đã ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược đánh phá dữ dội xuống Hà Nội và Hải Phòng. Ở Hà Tĩnh, máy bay của Mỹ đã ném xuống gần 53.523 quả bom các loại. Kết hợp với không quân, 32 tàu khu trục, 11 tàu đổ bộ của Mỹ thay nhau bắn phá vào đất liền. Chúng muốn “chẹt cổ họng”, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Nhưng quân và dân Hà Tĩnh vẫn vững vàng giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện, thông xe, thông tuyến, bảo bệ vững chắc hậu phương.
Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, công tác bảo đảm giao thông có sự chuẩn bị toàn diện về thế trận, rộng khắp. Chỉ sau một thời gian ngắn, lực lượng ứng cứu giao thông phát triển rất nhanh, toàn tỉnh đã có 150 đội rà phá bom gồm 670 người, 200 đội ứng cứu giao thông với gần 1 vạn người, 53 đài quan sát bom, 68 vọng gác và trạm gác đèn điều phối giao thông… Cùng với đó, Ty Giao thông đã phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh phân công các địa phương chuẩn bị sẵn sàng đất đá, gỗ tre và lực lượng ứng cứu giao thông. Phong trào toàn dân làm giao thông vận tải phát triển nhanh chóng. Cùng với đó, vận chuyển nhân dân phát triển đến đỉnh cao, khối lượng hàng hóa vận chuyển ngày một nhiều. Nhân dân Hà Tĩnh đã huy động 132 lần toa goòng, 118 đầu xe ô tô, 13 móc, 9 ca nô, 37 xà lan cho công tác vận tải, chuyển vào chiến trường 489.803 tấn hàng; trong đó, vận chuyển bằng đường goòng 1.323 tấn, đường bộ 153.976 tấn, đường thủy 193.000 tấn, còn lại là vận chuyển nhân dân đảm nhiệm(12). Như vậy, dù đế quốc Mỹ đưa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai lên đến đỉnh điểm(13) của sự tàn bạo, nhưng vẫn không thể bóp nghẹt được ý chí giải phóng miền Nam của quân và dân ta. Trong đó, quân và dân Hà Tĩnh đã góp phần xứng đáng vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho nhân dân miền Nam đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Có thể thấy, trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân và dân Hà Tĩnh đã vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù, kiên cường bám trụ chiến đấu, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải, nhiều địa danh nổi tiếng như Đồng Lộc, Khe Giao, Linh Cảm, Địa Lợi… đã được lịch sử ghi nhận như một chiến công oanh liệt, biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành niềm tự hào của nhân dân Hà Tĩnh, nhân dân cả nước và nhận dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Trung tá, ThS Lê Văn Thành