Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn có vị trí chiến lược, quan trọng đối với Quân khu 4 và của cả nước; là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Bởi vậy, nơi đây trở thành một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Những đóng góp của quân và dân Hà Tĩnh trên mặt trận giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-1972) đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Hà Tĩnh là một vùng đất nhỏ hẹp, có địa hình rất đa dạng và phức tạp; đồi núi chiếm 80% diện tích toàn tỉnh; hệ thống sông ngòi khá dày đặc và đều có đặc điểm chung là chiều dài ngắn, các sông chính có độ dài hơn 500km; ngoài ra, có rất nhiều nhánh sông nhỏ, bao gồm cả sông tự nhiên và sông đào. Với đặc điểm đó, giao thông ở Hà Tĩnh dễ bị chia cắt, nhất là khi gặp các tình huống bất lợi xảy ra như mưa gió, bão lụt hoặc khi bị địch đánh phá.
Hà Tĩnh là huyết mạch giao thông quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với miền Bắc, quân và dân Hà Tĩnh bắt tay vào khôi phục lại hệ thống giao thông cũ hoặc bị hư hỏng do chiến tranh. Trong vòng 10 năm xây dựng hòa bình (1954 - 1964), với sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, Hà Tĩnh đã tiến hành nhiều biện pháp góp phần khôi phục, sửa chữa và làm mới các đường giao thông trong tỉnh. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt bắt đầu được sửa chữa tương đối hoàn chỉnh; các phương tiện vận tải và nguồn nhân lực, vật lực khá dồi dào. Tuy nhiên, với điểm xuất phát thấp của nền kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải, nhất là đường sắt chưa được khôi phục toàn diện, đường thủy thì mới khai thác được một số đoạn trong mùa nước ổn định, còn phần lớn sông hẹp và cạn, luồng lạch chưa được nạo vét. Trong khi đó, các tuyến đường bộ tuy có phát huy được vận chuyển, nhưng vẫn còn nhiều điểm yếu kém như: đường thường độc tuyến, nền đường thấp, mặt đường hẹp, cầu trọng tải nhỏ, nhiều sông suối cắt ngang, lại đi qua nhiều eo núi, đồng trũng. Cầu cống phần lớn làm tạm, tải trọng thấp, mật độ cầu cống lớn. Chỉ tính riêng trên các trục đường chính với tổng chiều dài 275km, đường số 1, 8, 15 đã có 178 chiếc cầu cống lớn nhỏ với chiều dài 2.123 mét, bình quân 1 km đường bộ có 7,5 cầu cống(1). Điều đó cho thấy, rất khó khăn cho công tác bảo đảm giao thông vận tải khi có thiên tai, địch họa xảy ra. Hơn nữa, trình độ tổ chức, chỉ huy điều hành, lực lượng, phương tiện kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Tính đến cuối năm 1964, số kỹ sư và nhân viên kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh Hà Tĩnh chỉ có khoảng trên 10 người, cùng với khoảng 47 chiếc ô tô vận tải, 327 tàu thuyền, lượng vật tư kỹ thuật dự phòng của ngành giao thông vận tải rất mỏng(2).
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đứng trước nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam; đồng thời, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong tháng 2 và 3/1965, với các chiến dịch “Mũi lao lửa” và “Sấm rền”, đế quốc Mỹ đã sử dụng hàng trăm chiếc máy bay đánh phá vào Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ An. Riêng Hà Tĩnh trong ngày 23/3/1965, Mỹ đã huy động 8 máy bay chia thành 3 hướng đến ném bom, bắn tên lửa xuống trạm quan sát hải quân, đồn 112 công an vũ trang. Tiếp đến, ngày 26/3/1965, Mỹ lại sử sụng 26 chiếc máy bay, chia thành nhiều tốp từ hướng tây lao xuống bắn phá núi Nài và khu vực xung quanh. Đầu tháng 4/1965, máy bay Mỹ chuyển sang đánh phá các mục tiêu giao thông vận tải, kinh tế và dân cư. Ngày 10/4/1965, máy bay Mỹ đánh sập cầu Nước Sốt trên đường số 8. Đây là chiếc cầu bị đánh hỏng đầu tiên ở Hà Tĩnh trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ ngày 10/4 đến ngày 7/7/1965, máy bay Mỹ đánh vào toàn bộ cầu, cống trên các tuyến đường số 1, số 8 và số 15 ở Hà Tĩnh. Đến ngày 25/10/1965, toàn bộ hệ thống cầu (trừ Đò Trai) và cống lớn trên các đường quốc lộ và tỉnh lộ Hà Tĩnh đều bị đánh hỏng.
Thấy rõ những nhược điểm của hệ thống giao thông vận tải và những thiệt hại do đế quốc Mỹ gây ra, Tỉnh ủy Hà Tĩnh chú trọng làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm giao thông vận tải. Trong hai ngày 17 và 18/5/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh ủy mở rộng bàn chuyên đề về công tác bảo đảm giao thông vận tải. Hội nghị khẳng định: “Bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ trung tâm số 1 của Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh; dù có hi sinh đổ máu cũng phải đảm bảo được giao thông vận tải; tìm mọi biện pháp để thông đường, thông xe”(3). Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Tỉnh ủy ra nghị quyết thành lập Đảng ủy Tỉnh đội, quyết định thành lập Ban đảm bảo giao thông vận tải ở các cấp do đồng chí Chủ tịch Ủy ban Hành chính làm Trưởng ban; đồng thời, thành lập lực lượng thanh niên xung phong và các đội chủ lực giao thông ở các huyện làm lực lượng cơ động, bảo đảm giao thông vận tải trên các địa bàn trọng yếu; bổ sung một số đồng chí vào Thường vụ Tỉnh ủy, điều động một số cán bộ tăng cường cho ngành giao thông vận tải. Trên cơ sở đó, tháng 6/1965, Tổng đội thanh niên xung phong 25 được thành lập vào chiến trường miền Nam phục vụ trực tiếp cho chiến đấu; tiếp đó, các tổng đội thanh niên xung phong 55 và 53 cũng được thành lập.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Được sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ban đảm bảo giao thông ở các cấp, lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ở Hà Tĩnh có bước phát triển về mọi mặt. Các công ty cầu, công ty vận tải ô tô, công ty vận tải đường biển, đường sông, các xí nghiệp đóng tàu, thuyền, phà phao được củng cố và thành lập. Về tổ chức chỉ đạo, Tỉnh lập ra các Ban bảo đảm giao thông vận tải từ tỉnh đến huyện, xã để giúp cho cấp ủy, chính quyền tổ chức, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải theo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh. Ban Thường vụ là cơ quan thường trực của cấp ủy các cấp trực tiếp theo dõi, nắm chắc tình hình diễn biến của từng địa phương, đơn vị, đưa ra các phương án chỉ đạo kịp thời. Ngành giao thông vận tải Hà Tĩnh được kiện toàn, bổ sung đủ cán bộ chủ trì, cán bộ chuyên môn kỹ thuật; đồng thời, tổ chức thêm lực lượng xung kích trong công tác giao thông vận tải, gồm: Hai tổng đội thanh niên xung phong, 15 đại đội chủ lực giao thông ở các huyện, 4 đơn vị sản xuất công cụ bảo đảm giao thông, với quân số hơn 1 vạn người. Ngoài ra, ngành còn mở rộng, tăng cường thiết bị, vật tư, quân số cho xí nghiệp sửa chữa ô tô, để giải quyết phương tiện chủ yếu cho công tác đảm bảo giao thông vận tải(4). Bộ giao thông vận tải chi viện cho Hà Tĩnh máy công cụ, vật tư phương tiện, cán bộ, các công nhân viên kỹ thuật lành nghề để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh.
Từ ngày 8 – 10/10/1965, Ban Chấp hành Tỉnh họp Hội nghị bàn về nhiệm vụ đánh địch. Nhận định về âm mưu của địch, Hội nghị nêu rõ: “Âm mưu sắp tới của chúng sẽ đánh phá với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn”(5); do đó, đề ra nhiệm vụ cho quân và dân Hà Tĩnh phải luôn luôn đề cao cảnh giác, phát huy khí thế chiến thắng, tăng cường công tác phòng thủ trị an, tiếp tục đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Hội nghị đi đến quyết định tổ chức và phát động rộng rãi phong trào toàn dân làm giao thông vận tải; đề nghị Trung ương chi viện để mở thêm các tuyến đường ở phía nam và tây nam.
Cũng trong thời kỳ này, do địch tập trung đánh phá cầu cống và các bến sông, bến phà, tạo nên những điểm tắc nghẹn trên các tuyến giao thông… Do vậy, công tác vượt sông được xác định là nhiệm vụ đột xuất số 1 trên mặt trận bảo đảm vận tải. Để có đủ phương tiện, vật tư đảm bảo vượt sông, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh giao cho Ngành Giao thông vận tải nghiên cứu đóng phà phao; ngành Lâm nghiệp cung cấp gỗ và các vật liệu khác; Ban chỉ huy Tỉnh đội, trực tiếp là Ban chỉ huy Công binh, điều hành các bến phà. Mỗi bến phà có 1-2 trung đội đảm nhiệm, quân số nơi thấp nhất là 30 người, nhiều nhất là 80 người vừa làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, vừa thường trực chiến đấu đánh máy bay địch, bảo vệ hàng hóa, phương tiện vận tải, bến bãi. Ban đầu, các đơn vị tổ chức vượt sông bằng phương pháp kéo phà bằng tay, sau đó cải tiến làm cầu phao và có cầu dẫn ở hai đầu bến, bảo đảm xe có trọng tải lớn đi qua được an toàn thuận lợi, lúc địch đánh phá có thể tháo dỡ di chuyển cơ động nhanh. Khi cần vượt sông, việc lắp ghép cũng đơn giản, thuận tiện và phù hợp với điều kiện nước thủy triều lên xuống. Với phương pháp này, vừa mang lại hiệu suất cao, vừa bảo đảm an toàn, đỡ tốn sức lao động. Trước đây, một đêm phải huy động từ 10 - 15 người kéo phà, nay chỉ cần 5-7 người phụ trách ở hai đầu bến. Lưu lượng xe tăng gấp 4-5 lần so với thời gian trước(6). Với biện pháp này, lưu lượng qua phà mỗi đêm ở một bến từ 200 đến 400 chiếc tăng lên 400 - 450 chiếc. Thời gian một chuyến phà qua sông giảm đi 2 lần(7). Ngoài việc tổ chức giải quyết khâu vượt sông, tỉnh còn tổ chức lực lượng rà phá bom mìn, giải tỏa các trọng điểm và giải quyết tốt việc ứng cứu giao thông, như: san lấp hố bom, làm cầu vượt qua hố bom, đi đôi với sửa chữa cầu đường và làm thêm đường mới, đường vòng tránh, cứu xe, cứu hàng, gác đèn, điều chỉnh luồng lạch. Công tác bảo đảm giao thông vận tải được các địa phương thực hiện một cách triệt để và sáng tạo. Tiêu biểu là Kỳ Anh đã “sớm trở thành lá cờ đầu của tỉnh, của miền Bắc về công tác bảm đảm giao thông vận tải”(8).
Trong thời gian cuối tháng 12/1965, chớp thời cơ Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam trong vòng 36 ngày để hoàn thiện “thiện chí trong hòa bình”, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã phát động chiến dịch Quang Trung, huy động quân và dân ra sức làm giao thông vận tải. Đã có hơn 10 vạn lượt người, cùng các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy từ tỉnh đến xã ra mặt đường, vừa làm giao thông vận tải, vừa vui tết đón xuân. Tính chung trong vòng 1 tháng, quân và dân Hà Tĩnh đã nâng cấp, sửa chữa 75km đường cũ, đường tránh, củng cố làm mới thêm các bến vượt sông, vận chuyển vào Quảng Bình 14 vạn tấn và tiếp nhận từ phía Bắc đưa về tỉnh 3 vạn tấn hàng hóa.
Ngày 31/1/1966, không quân Mỹ đánh phá trở lại Hà Tĩnh. Từ cuối tháng 2 năm 1966, hải quân Mỹ dùng pháo trên các tàu chiến bắn vào đất liền. Các xã ven biển của huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh bị pháo kích thường xuyên. Mục đích đánh phá của hải quân Mỹ là uy hiếp tinh thần nhân dân các xã ven biển, đánh vào các trận địa pháo, cầu cống trên quốc lộ số 1. Với tinh thần cảnh giác cao độ, quân và dân Hà Tĩnh đã đánh trả nhiều trận đạt hiệu suất chiến đấu cao, đó là trận đánh ngày 24/3/1966 của cán bộ, chiến sĩ đồn 93 công an vũ trang; bắn cháy một chiếc tàu hộ tống trên vùng biển Can Lộc của Đại đội 444 Pháo binh ngày 24/4/1966; trận tiêu diệt 1 máy bay AD6 của Tiểu đoàn 61 ngày 27/4/1966; trận chiến đấu của đội dân quân trực chiến xã Đức Ninh (Đức Thọ) bắn rơi 1 máy bay của Mỹ ngày 18/8/1966. Như vậy, tính đến tháng 8/1966, quân và dân Hà Tĩnh “đã bắn rơi cộng tất cả 100 máy bay Mỹ”(9). Đó là một chiến thắng vẻ vang của quân và dân Hà Tĩnh trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ phá hoại.
Cùng với đó, được sự quan tâm giúp đỡ về lực lượng, phương tiện và vật tư của Bộ Giao thông vận tải, các tuyến đường 18, 21, 22, 23, 24, 28 lần lượt được thi công. Huyện Cẩm Xuyên mở đường từ cầu Na đi Cẩm Bình, Cẩm Huy, huyện Hương Khê mở đường Lộc Yên đi Hương Châu. Lực lượng tham gia mở đường có tổng đội thanh niên xung phong 53, 55 và các đơn vị chủ lực của ngành giao thông tỉnh. Ngoài ra, cấp trên tăng cường cho một tổng đội thanh niên xung phong Hà Nội, Hải Phòng, 1 đại đội xe máy, 2 tiểu đoàn công binh của Quân khu 4 và Đoàn 559. Công cuộc mở đường ở Hà Tĩnh còn có sự đóng góp của nhân dân toàn tỉnh. Do vậy, tiến độ thi công luôn luôn vượt kế hoạch, bất chấp mọi thủ đoạn đánh phá ác liệt của quân địch. Đến cuối năm 1966, các tuyến đường mới lần lượt thông xe, với tổng số chiều dài xấp xỉ bằng hai tuyến đường chính (quốc lộ 1 và 8) và các đường tỉnh lộ mà thực dân Pháp đã làm trong gần 100 năm. Việc đưa các tuyến đường mới, đường tránh vào sử dụng đã góp phần quan trọng tạo ra thế trận mới cho công tác bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Phát hiện ra những biến đổi trên tuyến giao thông ở Hà Tĩnh, nhất là ở phía nam và tây nam, đế quốc Mỹ đã thay đổi thủ đoạn đánh phá, chúng không đánh liên tục dài ngày vào các điểm xung yếu ở phía nam (Đèo Ngang, cầu Họ, cầu Trung, cầu Rác) và tây nam (Địa Lợi), mà chuyển sang đánh theo chu kỳ, khi tập trung đánh phía bắc, khi tập trung đánh phía nam. Trước thủ đoạn mới của Mỹ, do chưa phân tích, nắm bắt kịp thời quy luật hoạt động của không quân Mỹ, nên trong những tháng cuối năm 1966, Hà Tĩnh đã bị tổn thất về người, phương tiện, hàng hóa và nhà cửa.
Bước vào năm 1967, Bộ Chính trị ra Chỉ thị nhấn mạnh: “Năm 1967 là năm có tầm quan trọng lớn đối với địch cũng như đối với ta. Địch sẽ ra sức tăng cường lực lượng nhằm đánh nhanh thắng nhanh; ta phải cố gắng hơn nữa về mọi mặt, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định”(10). Đúng như dự kiến của ta, Mỹ bắt đầu đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân lên nấc thang cao hơn. Trong thời gian này, cùng với những thiệt hại do sự đánh phá của quân Mỹ, Hà Tĩnh còn phải chịu hậu quả nặng nề của thiên tai (đầu năm hạn hán nặng, cuối năm liên tiếp phải hứng chịu 3 cơn bão). Những khó khăn đó đã làm cho tuyến đường vận tải qua Hà Tĩnh bị ách tắc nghiêm trọng, nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, ngày 20/9/1967, Tỉnh ủy ra nghị quyết tập trung lực lượng quyết thắng giặc Mỹ trên tuyến giao thông vận tải, kịp thời khắc phục khó khăn, đưa Hà Tĩnh vượt qua nhiều thử thách.
Đầu tháng 1/1968, địch tập trung đánh phá cắt đứt đường số 1, đoạn từ Hạ Vàng vào Cổ Ngựa. Sau đó, tập trung máy bay đánh phá dồn dập vào Ngã ba Đồng Lộc, một trọng điểm có tính chất cửa ngõ. Trong vòng từ tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay của Mỹ đánh vào Đồng Lộc tổng cộng 1863 lần với trên 42.990 quả bom các loại. Tổng số lần đánh vào Đồng Lộc bằng tổng số lần đánh vào toàn tỉnh năm 1965, số bom đạn lớn gấp 2 lần. Bình quân 1 tháng, địch đánh 25 ngày; ngày đánh cao nhất 103 lần chiếc, ném 800 quả bom. Trước sự đánh phá quyết liệt của địch, nhận thức rõ vị trí chiến lược của Ngã ba Đồng Lộc, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương tập trung huy động lực lượng dồn sức cho Ngã ba Đồng Lộc để giải tỏa điểm chốt, giữ vững mạch máu giao thông chiến lược.
Chỉ sau một thời gian ngắn, tỉnh đã điều động một lực lượng lớn gồm 5 đại đội thanh niên xung phong, 3 đại đội chủ lực giao thông, 1 đội cầu, 1 đội xe cơ giới làm nhiệm vụ ứng cứu giải tỏa giao thông. Lực lượng chiến đấu gồm Trung đoàn pháo cao xạ 210 của Bộ và một bộ phận của Tiểu đoàn 30 công binh Quân khu, Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ của tỉnh, với quân số khoảng trên 16.000 người. Chưa kể còn có sự tham gia của các lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã Đồng Lộc, Quang Lộc, Mỹ Lộc, Thượng Lộc. Ban chỉ huy giải tỏa điểm chốt Đồng Lộc được thành lập. Các tổ quan sát bom, cầm tiêu, rà phá bom, ứng cứu cầu đường cùng với mạng lưới thông tin liên lạc, lực lượng điều hành phương tiện giao thông, giữ gìn trật tự an ninh tại khu vực Ngã ba Đồng Lộc được hình thành và bắt tay ngay vào công việc với mục tiêu “thông tuyến, thông xe nhanh nhất”. Công việc giải tỏa điểm chốt được tiến hành khẩn trương, với nhiều biện pháp đồng bộ, tích cực như: vừa đánh máy bay, vừa phát hiện, rà phá bom mìn, san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường; đồng thời, phát triển mở rộng thêm các tuyến đường mới, đường vòng tránh…
Do vậy, mặc dù bị địch tập trung đánh phá ác liệt và tàn bạo, nhưng giao thông vận tải ở Hà Tĩnh vẫn được giữ vững, bảo đảm cho tuyến chi viện chiến lược từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam thông suốt. Riêng ở Đồng Lộc, trong 7 tháng kiên cường bám trụ, quân và dân nơi đây đã hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi 19 máy bay Mỹ, phá 1.780 quả bom nổ chậm, bom từ trường; huy động 97.240 ngày công để san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường và làm thêm tuyến đường mới dài gần 6km, từ ngã ba Khiêm Ích qua Truông Kén đến Bãi Dĩa, làm thất bại hoàn toàn âm mưu cắt đứt con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam qua Đồng Lộc của đế quốc Mỹ. Trên trọng điểm ác liệt này, đã có nhiều tập thể, cá nhân nêu cao lòng dũng cảm không sợ hi sinh, như tập thể 10 cô gái thanh niên xung phong Tổng đội 55 đã hi sinh cho tuyến đường khi tuổi đời còn rất trẻ và nhiều tấm gương anh dũng hi sinh để bảo vệ thông suốt tuyến đường, chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Thành tích của nhân dân trong công tác bảo đảm giao thông vận tải thật to lớn và kỳ diệu. Trong 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), nhân dân Hà Tĩnh đã góp trên 20 triệu ngày công, đào lấp được 6,5 triệu m³ đất đá, cát sỏi, khai thác hàng chục vạn cây tre, gỗ, nứa, lấp 16.956 hố bom, làm 14 đường xuống bến phà dài 16,28km, đắp 163 đường tránh dài 122km, ghép đá làm 158 đường ngầm dài 18km, cứu 28.246 tấn hàng, 1.113 ô tô bị lún lầy, 428 ô tô bị cháy, 4.233 thuyền bị đắm(11). Con số đã nói lên sức mạnh to lớn của nhân dân Hà Tĩnh trong công tác phục vụ kháng chiến nói chung, bảo đảm giao thông vận tải nói riêng.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam, Bắc, trước sức ép của dư luận và nhân dân tiến bộ trên thế giới, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom đánh phá miền Bắc. Tranh thủ điều kiện hòa bình tạm thời, để thúc đẩy sản xuất, bảo đảm giao thông, ngay từ đầu năm 1969, Tỉnh ủy Hà Tĩnh phát động phong trào thi đua cùng “tiến quân ba mũi” (giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác, đào đắp thủy lợi nội đồng). Hưởng ứng phong trào, hơn 300 đội rà phá bom ra quân trên các tuyến giao thông và các cánh đồng đã thu được được kết quả lớn, giải phóng được hàng ngàn héc ta ruộng đất. Những cầu cống lớn, nhỏ trên đường 1A, 15A, đường số 8 được sửa chữa, nâng cấp; các điểm nút giao thông ở Thượng Gia, Cổ Ngựa, Đồng Lộc, Linh Cảm… được giải tỏa; toàn tuyến giao thông thủy bộ thông suốt. Với thành công này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vận tải của Trung ương và địa phương thực hiện chiến dịch vận tải VT5 giành thắng lợi giòn giã. Đã có hơn 132 ngàn tấn hành đi qua địa phận Hà Tĩnh chuyển giao cho Quảng Bình để từ đó tiếp tục đưa vào chiến trường miền Nam. Bên cạnh việc phục vụ chiến dịch VT5, Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh còn vận chuyển được gần 1.600 tấn hàng, huy động 534.625 ngày công phục vụ giao thông trên tuyến đường số 8 sang Lào.
Trong khi miền Bắc tạm thời có hòa bình, thì cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam diễn ra ngày càng ác liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ vội vàng “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh, đưa thêm một lực lượng lớn không quân, hải quân vào cuộc chiến, hòng chặn đứng cuộc tiến công của ta. Đúng một tuần sau khi ta mở màn cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Ở Hà Tĩnh, ngày 9/4/ 1972, Mỹ tập trung 180 lần chiếc máy bay đánh xuống cầu Thọ Tường, Cầu Họ và các chân hàng, kho trạm ở dọc đường 1A, 15A và đường số 8. Từ tháng 5 trở đi, chúng huy động hàng trăm tốp máy bay đánh mạnh vào các tuyến đường giao thông. Chỉ trong vòng 1 tháng, chúng đã đánh sập 14 cầu vừa làm lại trên quốc lộ 1A. Bên cạnh đó, chúng dùng thủy lôi phong tỏa cảng Xuân Hải, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu và các tuyến đường sông như sông Lam, La, Ngàn Sâu, Ngàn Phố; các bến phà Linh Cảm, Địa Lợi, Khe Giao… Đặc biệt cuối năm 1972, sau khi trúng cử tổng thống, Níchxơn đã ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược đánh phá dữ dội xuống Hà Nội và Hải Phòng. Ở Hà Tĩnh, máy bay của Mỹ đã ném xuống gần 53.523 quả bom các loại. Kết hợp với không quân, 32 tàu khu trục, 11 tàu đổ bộ của Mỹ thay nhau bắn phá vào đất liền. Chúng muốn “chẹt cổ họng”, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Nhưng quân và dân Hà Tĩnh vẫn vững vàng giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện, thông xe, thông tuyến, bảo bệ vững chắc hậu phương.
Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, công tác bảo đảm giao thông có sự chuẩn bị toàn diện về thế trận, rộng khắp. Chỉ sau một thời gian ngắn, lực lượng ứng cứu giao thông phát triển rất nhanh, toàn tỉnh đã có 150 đội rà phá bom gồm 670 người, 200 đội ứng cứu giao thông với gần 1 vạn người, 53 đài quan sát bom, 68 vọng gác và trạm gác đèn điều phối giao thông… Cùng với đó, Ty Giao thông đã phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh phân công các địa phương chuẩn bị sẵn sàng đất đá, gỗ tre và lực lượng ứng cứu giao thông. Phong trào toàn dân làm giao thông vận tải phát triển nhanh chóng. Cùng với đó, vận chuyển nhân dân phát triển đến đỉnh cao, khối lượng hàng hóa vận chuyển ngày một nhiều. Nhân dân Hà Tĩnh đã huy động 132 lần toa goòng, 118 đầu xe ô tô, 13 móc, 9 ca nô, 37 xà lan cho công tác vận tải, chuyển vào chiến trường 489.803 tấn hàng; trong đó, vận chuyển bằng đường goòng 1.323 tấn, đường bộ 153.976 tấn, đường thủy 193.000 tấn, còn lại là vận chuyển nhân dân đảm nhiệm(12). Như vậy, dù đế quốc Mỹ đưa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai lên đến đỉnh điểm(13) của sự tàn bạo, nhưng vẫn không thể bóp nghẹt được ý chí giải phóng miền Nam của quân và dân ta. Trong đó, quân và dân Hà Tĩnh đã góp phần xứng đáng vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho nhân dân miền Nam đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Có thể thấy, trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân và dân Hà Tĩnh đã vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù, kiên cường bám trụ chiến đấu, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải, nhiều địa danh nổi tiếng như Đồng Lộc, Khe Giao, Linh Cảm, Địa Lợi… đã được lịch sử ghi nhận như một chiến công oanh liệt, biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành niềm tự hào của nhân dân Hà Tĩnh, nhân dân cả nước và nhận dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Trung tá, ThS Lê Văn Thành
Hà Tĩnh là vùng đất địa linh nhân kiệt có truyền thống yêu nước lâu đời, luôn nêu cao tinh thần chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Tinh thần này đã được phát huy mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hơn nửa thế kỷ trước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn chiến lược đối với Quân khu 4 và của cả nước, là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với các tỉnh Trung, Hạ Lào và Campuchia.
Theo PGS. TS Nguyễn Đình Lê, trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta từng chuẩn bị cả tình huống Mỹ đưa quân đánh ra miền Bắc. Vị trí phía Mỹ tính đổ quân là khu công nghiệp Vũng Áng hiện tại, nơi có cảng biển sâu và dễ cắt trục Bắc – Nam. Trung ương đã dự tính huống này từ năm 1967 sau đó đã lập Đoàn 70 để sẵn sàng đánh địch và từng đưa lực lượng phản gián đặc biệt vào ém cứ ở Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Chính vì vị trí đặc biệt của mình, Hà Tĩnh là một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Chúng đã nhiều lần tung gián điệp biệt kích, thám báo hoạt động chống phá, sử dụng trên 4 vạn lượt chiếc máy bay (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52, cánh cụp cánh xòe F111) và hàng trăm tàu chiến trên biển ngày đêm đánh phá mảnh đất này với hơn 200.000 tấn bom, đạn các loại.
Trước những khó khăn, thử thách và bom đạn ác liệt của kẻ thù, quân và dân Hà Tĩnh đã kiên cường bám trụ địa bàn vừa sản xuất, vừa chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam với tinh thần “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Những hình ảnh người nông dân gặt lúa dưới ánh pháo sáng địch, những công nhân tay búa tay súng bảo vệ nhà máy công xưởng, các em nhỏ đội mũ rơm đến trường, phiên chợ đêm lặng lẽ, lúa vẫn xanh bên hố bom thù, bà con ngư dân vẫn vượt sóng ra khơi bám biển, đêm đêm hàng trăm xe vẫn nối đuôi nhau chở hàng ra tuyền tuyến mặc sự bủa vây của bom đạn địch... càng nói lên bản lĩnh chính trị, tình cảm, quyết tâm và trách nhiệm của quân và dân Hà Tĩnh sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì cả nước.
Thanh niên xung phong lấp hố bom, sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Thông đường cho những chuyến xe qua
Theo sách Lịch sử giao thông vận tải Hà Tĩnh, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, hệ thống giao thông trên địa bàn Hà Tĩnh đã được mở rộng liên tục. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, quân và dân Hà Tĩnh đã đào đắp hàng triệu m3 đất, đá để san lấp hố bom, khắc phục cầu đường; mở nhiều tuyến đường mới với chiều dài hơn 500km, sửa chữa gần 700km đường bị đánh phá, rà phá hàng chục ngàn quả bom, đạn các loại, giữ vững mạch máu giao thông, chi viện kịp thời cho các chiến trường đánh Mỹ.
Quốc lộ 1 từ Bến Thủy vào Bãi Vọt dài 15km có 2 cầu và 10km nằm ngoài đê La Giang, mùa mưa lũ thường ngập chìm dưới nước. Đường chạy men theo chân núi Hồng Lĩnh, một phía là vách đá, một phía là sông Lam, các phương tiện vận tải khó tránh khỏi tầm phong tỏa, khống chế của máy bay Mỹ. Để khắc phục tình trạng đó, tháng 7/1965 Ty Giao thông Vận tải huy động Đội công trình 1 và Tổng đội Thanh niên xung phong 55 chịu trách nhiệm thi công đường 18 chạy phía đông núi Hồng Lĩnh, song song với Quốc lộ 1. Ba trăm cán bộ công nhân giao thông vận tải và dân công đã lao động cật lực, đến cuối tháng 8/1965 thì thông xe.
Tuyến đường 23 nối Tỉnh lộ 2 với Tỉnh lộ 3 chỉ dài 6km nhưng có vị trí quan trọng. Khi cầu Song, cầu Nga, cầu Cày, cầu Đông gặp sự cố, các phương tiện vận tải sẽ theo đường 23 lên Quốc lộ 15 vào đường 21 hoặc đi tiếp Quốc lộ 15 lên Hương Khê. Các lực lượng chủ lực giao thông vận tải thi công trong vòng 2 tháng thì xong đường 23. Các phương tiện vận tải theo đường này sẽ tránh được các Kỳ Tây (Kỳ Anh), đường 24 nối liền Quốc lộ 1 với đường 22-câu, công trên tuyến Quốc lộ 1 từ Cẩm Xuyên vào Đèo Ngang Bộ Giao thông vận tải và Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh huy động Đội công trình và Đội cơ giới chịu trách nhiệm thi công, cuối năm 1966 th hoàn thành tuyến đường này.
Đường 26 nối từ Thạch Bình (Thạch Hà) qua Cẩm Bình vào Cẩm Huy (Cẩm Xuyên) do lực lượng giao thông và nhân dân huyện Cẩm Xuyên thi công. Đường 26 tránh cầu Na, cầu Hữu Quyền trên Quốc lộ 1. Đường 28 khởi phát từ Phú Lộc (Can Lộc) men theo chân núi Trà Sơn, gần như song song với đường số 8, nối với Linh Cảm do đội Công trình 5 và lực lượng thanh niên xung phong đảm nhận thi công. Các phương tiện vận tải theo đường này tránh được các trọng điểm cầu Chợ Giấy, công 19, cầu Đôi ở Đức Long (Đức Thọ).
Trong khi đó, đường 31 khởi phát từ Địa Lợi qua Hương Khê, men theo chân đồi về Lộc Yên nối vào đường 15. Đây là tuyến đường tránh cầu Trộ, cầu Tân, cầu Vạn- những trọng điểm đánh phá của địch, nên có lưu lượng xe vận tải qua lại rất lớn. Ngoài các tuyến đường trên, lực lượng giao thông vận tải còn mở đường 11 đi từ Cẩm Dương lên thị trấn Cẩm Xuyên, đường 58 từ đường 18 vòng vào chân núi Hồng Lĩnh, qua Thiên Lộc về Nghèn.
Tháng 10/1965, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Nghị quyết phát động phong trào toàn dân làm giao thông vận tải, tổ chức lực lượng ba thứ quân đánh máy bay địch và mở đường mới phá thế độc tuyến, đến giữa năm 1967, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã làm được 11 con đường mới ở phía Tây Nam và phía Bắc tỉnh dài 259km. Ngoài ra nhân dân cùng lực lượng giao thông vận tải và thanh niên xung phong làm mới 121km đường xế, đường vòng tránh, đường xuống các bến phà. Trong những tháng ngày mở đường lịch sử ấy đã có biết bao hy sinh mất mát, không chỉ đối với các lực lượng trực tiếp thi công mà cả nhân dân những làng xóm có đường mới chạy qua.
Mưa bom bão đạn
Từ tháng 2/1965 đến tháng 10/1968, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, kiên cường chịu đựng những tổn thất hy sinh to lớn vì “độc lập, tự do của Tổ quốc”. Suốt 4 năm ấy, máy bay Mỹ đã đánh phá Hà Tĩnh 32.090 lần với 296.009 quả bom tàu chiến Mỹ đã pháo kích 4.900 lần với 149.000 quả đạn 12.800 người đã hy sinh, 12.800 người bị thương, 29.000 ngôi nhà bị cháy và nhiều tổn thất to lớn về kinh tế, văn hoá xã hội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo các Cục,Viện Bộ Giao thông vận tải và sự tăng cường phương tiện, lực lượng giao thông vận tải Hà Tĩnh đã cùng toàn Đảng, toàn dân đoàn kết nhất trí, kiên trì vượt qua mọi thử thách, tự nguyện hy sinh đảm bảo mạch máu giao thông vận tải luôn thông suốt, góp phần to lớn vào chiến thắng chung của đất nước và công cuộc xây dựng phát triển kinh tế của tỉnh.
Trong 7 tháng từ tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay địch đánh vào Đồng Lộc 1.863 lần với trên 42.990 quả bom các loại. Tổng số lần đánh vào Đồng Lộc thời gian này bằng tổng số lần chúng đánh vào toàn tỉnh năm 1965, còn số bom đạn thì gấp 2 lần, bình quân mỗi tháng địch đánh 25 ngày. Riêng ngày 15/7/1968, Mỹ đánh tới 103 lần với 800 quả bom. Các xã chung quanh khu vực Đồng Lộc bị bom đạn Mỹ giết hại 336 người, bị thương 346 người, cháy 3.738 ngôi nhà, 2.400 tấn gạo, chết 420 con trâu, bò. Nhân dân Đồng Lộc phải bỏ nhà cửa sơ tán lên vùng rừng ở Cửa Thờ, Trại Tiểu, khi thi công tuyến đường tránh 70B, lại sơ tán một lần nữa, số vào sâu trong rừng, số ra Thượng Lộc, Vĩnh Lộc.
Khi giặc Mỹ thực hiện lối đánh có tính chất hủy diệt xuống 20 xã và 45 hợp tác xã ở ba huyện Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, nhiều vùng, miền khác trong tỉnh cũng chìm trong khói lửa. Tháng 8/1968, chúng đánh vào xã Đức Lập (Đức Thọ) làm cháy 5 ô tô, 100 ngôi nhà, làm chết 19 người. Ngày 23 - 8 chúng đánh vào Đức Phúc (Đức Thọ) cháy 32 ô tô, 300 tấn gạo, 200 ngôi nhà, chết 27 người. Xã Đức Tân (Đức Thọ) bị đánh liên tiếp 40 lần. chết 124 người, bị thương 154 người, 95% nhà cửa bị phá hỏng.
Từ giữa tháng 9/1968, mưa to kéo dài nhiều ngày gây ngập lụt trên diện rộng. Các tuyến đường giao thông quan trọng Quốc lộ 1, Quốc lộ 8, Quốc lộ 15 nhiều đoạn bị ngập và bị xói lở. Các tuyến đường mới mở như Bãi Dịa - Truông Kén, Cống 19 - Khe Út và từ Ngã ba Đồng Lộc đến Khe Giao bị hố bom cắt đứt. Lầy thụt xe không qua được. Tuyến vận tải đường bộ qua địa bàn Hà Tĩnh bị tắc nghẽn. Lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải: đồng chí Dương Bạch Liên, đồng chí Đào Vi Cảo, và nhiều đồng chí khác đã có mặt ở Hà Tĩnh. Bộ Giao thông vận tải còn điều động các đ/c lãnh đạo Ty Giao thông vận tải các tỉnh phía Bắc như Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tây... vào giúp chỉ đạo bảo đảm giao thông trên đất Hà Tĩnh. Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã họp khẩn cấp và chỉ đạo Ban Chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải Hà Tĩnh phát động phong trào vận tải nhân dân. Hàng ngày người dân gánh bộ, thồ hàng bằng xe đạp theo cung trạm từ phía Bắc vào phía Nam giao hàng cho Quảng Bình. Chủ trương vận tải nhân dân của Hà Tĩnh được Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải đồng tình.
Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn tiếp tục là mục tiêu đánh phá trong các năm tiếp theo. Ngày 9/4/1972, Mỹ tập trung 180 lần/chiếc máy bay đánh cầu Thọ Tường trên tuyến đường sắt từ Bắc vào Nam, đánh Cầu Họ trên Quốc lộ 1, đánh vào các chân hàng kho, trạm dọc Quốc lộ 1, Quốc lộ 15 và Quốc lộ 8. Ngày 10/4/1972 Mỹ dùng máy bay B52 đánh phá vùng Bến Thủy.
Giao thông vận tải Hà Tĩnh bắt đầu chống chọi với sức mạnh tàn bạo của bom đạn Mỹ. Trong vòng 1 tháng, 14 cầu vừa sửa chữa lại trên Quốc lộ 1 và tất cả các cầu lớn, nhỏ trên tuyến đường Goòng Đức Thọ - Minh Cầm đã bị đánh sập. Khác với cuộc đánh phá lần thứ nhất, lần này Mỹ không đánh liên tục, đánh dứt điểm vào vị trí xung yếu Thượng Gia - Cổ Ngựa, Ngã ba Đồng Lộc, Ngã ba Linh Cảm mà tập trung đánh vào Cống 19 trên Quốc lộ 15, dọc tuyến 70A, đoạn K19 -K62 trên đường 22. Trong 9 tháng Mỹ đánh phá giao thông Hà Tĩnh 415 điểm, 3.188 trận với 47.962 quả bom các loại, bằng 2/3 số trận và số bom đánh trên toàn tỉnh, làm hư hỏng 129 phà, 13 tàu xuồng, 8 sà lan, 4 ca nô, 175 thuyền vận tải, làm cháy 259 xe ô tô, sập 53 cầu đường sắt, 38 cầu đường bộ, mức độ thiệt hại gần bằng 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
Từ tháng 5/1972, Mỹ dùng thủy lôi phong tỏa cảng Xuân Hải, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu và các tuyến đường sông. Sau 12 ngày đêm tập trung B52 đánh phá thủ đô Hà Nội bị thất bại thảm hại (từ 18-30/12/1972), đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, mở lại cuộc đàm phán ở Paris. Thế nhưng từ ngày 01 đến ngày 15-01-1973, chúng điên cuồng đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở vào. Ở Hà Tĩnh ngày 07/01/1973 chúng dùng máy bay B52 ném bom xuống sân bay dã chiến 723 (Cẩm Xuyên) làm 34 công nhân bị chết và 48 người bị thương. Tiếp đó, tiếp tục 11 lần chúng cho máy bay xâm phạm bầu trời và 21 vụ tàu biệt kích xâm phạm vùng biển Hà Tĩnh. Quân dân Hà Tĩnh kiên cường chiến đấu đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, vận chuyển hàng ra tiền tuyến.
Với ý chí và tinh thần: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Sống bám đường, chết kiên cường, dũng cảm”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... đã trở thành quyết tâm và phương châm hành động, gắn liền với những chiến công oanh liệt của mảnh đất, con người Hà Tĩnh anh hùng như: Bến Thủy, Linh Cảm, Địa Lợi, Đèo Ngang, Ngã ba Đồng Lộc, Làng K130 (Tiến Lộc - Can Lộc), Núi Nài (TP Hà Tĩnh); Tiểu đoàn 8 phòng không, Tiểu đội nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Trung đội súng máy 12,7 ly dân quân thị xã Hà Tĩnh, Trung đội dân quân pháo binh Xuân Liên (Nghi Xuân); Anh hùng Dương Chí Uyển, La Thị Tám, chuyên gia phá bom nổ chậm Vương Đình Nhỏ, nữ dân quân bắt sống giặc lái Mỹ Nguyễn Thị Kim Lai… và đặc biệt sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tô thắm truyền thống anh hùng của quê hương Hà Tĩnh và dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy bay các loại, bắn chìm, bắn cháy 34 tàu chiến, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái, nhiều tổ, toán biệt kích, thám báo. Trong đó, tiêu biểu nhất phải kể đến trận đầu thắng Mỹ 26/3/1965, quân và dân ta đã bắn rơi 9 máy bay Mỹ ngay trên bầu trời Thành Sen. Đây thực sự là chiến công đặc biệt xuất sắc, có ý nghĩa hết sức to lớn nhằm cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta, tạo tiền đề vững chắc cho quân và dân Hà Tĩnh lập công xuất sắc trong suốt quá trình chống Mỹ cứu nước.
Để cùng quân - dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Hà Tĩnh đã bổ sung một lực lượng lớn cho quân đội gồm 92.913 thanh niên nam, nữ, chiếm hơn 10% dân số, huy động 334.128 dân công hỏa tuyến, 10.636 thanh niên xung phong. Bổ sung cho các chiến trường 21 tiểu đoàn, 15 đại đội bộ đội địa phương. Riêng trong quý I/1975, Lực lượng vũ trang và Nhân dân Hà Tĩnh đã huy động 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 5 đại đội, với 8.091 cán bộ, chiến sỹ và 14.901 tân binh lên đường vào Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Các đơn vị lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã tham gia chiến đấu trên các chiến trường đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt 1550 tên địch, bắn rơi 13 máy bay, phá hủy 26 xe quân sự, thu nhiều phương tiện vũ khí của địch.
Ghi nhận những đóng góp, cống hiến to lớn của quân và dân Hà Tĩnh trong kháng chiến giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước đã phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho 213 tập thể, 37 cá nhân; 1.853 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; tặng thưởng 3 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc (nhất, nhì, ba), 1 Huân chương Chiến công hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác cho nhiều tập thể, cá nhân.
Hà Nhân (Tổng hợp)
Đại thủy nông Kẻ Gỗ - thành quả to lớn tổng hợp sức mạnh ý Đảng - lòng Dân của Nghệ Tĩnh và cả nước những năm 1976 - 1980 thời kỳ đầu xây dựng đất nước sau chiến tranh. Công trình được thực hiện khẩn trương, quyết liệt với tinh thần “có một viên gạch, một lao động cũng dành cho xây dựng Kẻ Gỗ”. Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, ý chí, quyết tâm vượt qua gian khó trong quá trình xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, những năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh luôn đoàn kết, nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các lĩnh vực, phấn đấu đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững.
Đại công trình hồ Kẻ Gỗ, biểu tượng của ý Đảng với lòng Dân
Nằm trên địa phận 3 huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và Hương Khê, công trình hồ Kẻ Gỗ làm nhiệm vụ điều tiết nước giảm lũ cho vùng hạ du, vừa phục vụ tưới cho vùng sản xuất lúa rộng lớn của huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh; được thiết kế có lưu vực rộng 223km2, lòng hồ rộng 2,9km, dài 22km, trữ lượng nước 345 triệu m3, có khả năng tưới cho 24.136ha, diện tích thực tưới là 15.000ha; công trình thủy lợi gắn với thủy điện có công suất khoảng 2.300kW; là hồ nuôi, thả cá với sản lượng 800 đến 1.000 tấn/năm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là mong ước qua nhiều thế hệ lãnh đạo và Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nhất là các địa phương Cẩm Xuyên, Thạch Hà, thị xã Hà Tĩnh ngày đó. Theo tài liệu từ thời Pháp thuộc, năm 1934 nhà cầm quyền thuộc địa đã cho khảo sát để đắp đập ở vùng Kẻ Gỗ, nhưng vì nhiều lý do nên công trình không được triển khai. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Đảng bộ Hà Tĩnh khi bàn phương án thủy lợi đã đề cập đến việc xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ nhưng do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên việc này phải dừng lại. Đến năm 1967, do yêu cầu cấp thiết của việc giảm thiểu lũ lụt và phục vụ tưới, tiêu, sản xuất nông nghiệp của vùng hạ du, Bộ Thủy lợi đã cho tiến hành khảo sát Kẻ Gỗ, đến tháng 12/1974, Chính phủ ra quyết định phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ .
Từ tháng 02/1975, tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập Ban chỉ huy công trường, làm 17km đường giao thông, xây dựng hệ thống thông tin, liên lạc, sản xuất vật liệu xây dựng (cát, sỏi), chuẩn bị thủ tục, tổ chức lực lượng lao động và các phương tiện kỹ thuật cho việc xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ. Đến cuối năm 1975, tỉnh đã huy động 2.500 lao động thủ công làm kênh mương và đưa phương tiện kỹ thuật hoạt động trên khu vực đầu mối. Ngày 26/3/1976, công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ chính thức được khởi công.
Để xây dựng hồ Kẻ Gỗ, cùng với hỗ trợ của Trung ương, tỉnh đã huy động hàng chục ngàn lượt lao động từ nhiều địa phương. Các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thị xã Hà Tĩnh vừa trực tiếp lao động vừa làm công tác hậu phương tại chỗ, bảo đảm 62% nhân lực lao động với 2.660.000 ngày công. Cùng với nhân dân địa phương có nhiều lực lượng tham gia thi công . Nhân lực lao động thường xuyên trên công trường là 10.200 người, trong đó có 3.000 thợ kỹ thuật.
Trong thời gian thi công, các lực lượng lao động đã đào đắp gần 11 triệu m¬3 đất, đá; sử dụng 21.900 tấn xi măng, 6.100 tấn thép, 3.900 m¬3 gỗ; đổ 10 vạn m¬3 bê tông; di chuyển 1.200 hộ dân về khu dân cư mới . Với quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự quan tâm chỉ đạo của các bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là nỗ lực to lớn của Nhân dân tỉnh nhà, ngày 26/3/1979 công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ được hoàn thành trước thời gian theo dự kiến 3 năm. Điều đáng khâm phục đó là chỉ với cuốc, xẻng và quang gánh - dụng cụ lao động chính của hàng chục vạn dân công trên công trường, cùng điều kiện thời tiết khắc nghiệt của miền Trung, địa hình địa chất phức tạp, điều kiện thi công kỹ thuật công nghệ còn hạn chế, nhưng đã hoàn thành một khối lượng công việc khổng lồ, đưa công trình vượt tiến độ so với kế hoạch. Thành công đó đã thể hiện ý chí, quyết tâm, nỗ lực vượt mọi khó khăn của các lực lượng; thể hiện cho tinh thần sáng tạo, lao động cần cù với tổ chức khoa học, ý thức kỷ luật cao. Từ đây, hơn 30 vạn người dân sống ở khu vực xung quanh Kẻ Gỗ thoát khỏi cảnh hạn hán, lũ lụt, góp phần đem lại mùa màng tốt tươi, đời sống Nhân dân được nâng lên.
Hồ Kẻ Gỗ là thành quả to lớn của thời kỳ đầu xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh. Công trình không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có giá trị văn hóa, một vùng cảnh quan, sinh thái phục vụ du lịch đã hình thành, trở thành đề tài sinh động của thơ ca, truyện ngắn, âm nhạc, phim ảnh có giá trị. Từ việc xây dựng công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ, chúng ta đã đúc rút được nhiều bài học quý để vận dụng vào thực tiễn xây dựng quê hương, đất nước, đó là:
Đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố quan trọng quyết định thành công. Xây dựng hồ Kẻ Gỗ trong bối cảnh đất nước vừa thống nhất, kinh tế gặp nhiều khó khăn, tập trung sản xuất nông nghiệp, phát huy thế mạnh về đất đai và nguồn nhân lực vốn có là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng sự mong mỏi của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương qua nhiều thế hệ, do đó được Nhân dân đồng lòng hưởng ứng.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng chúng ta đã huy động một lực lượng lớn cán bộ, công nhân kỹ thuật, dân công, thanh niên xung phong và các tầng lớp nhân dân đến từ nhiều vùng quê khác nhau tham gia xây dựng công trình, với khát khao cống hiến cho quê hương, đất nước, muốn góp một phần công sức của mình để hoàn thành công trình lịch sử.
Tổ chức lực lượng, phân bổ nguồn lực, điều hành hiệu quả - yếu tố cốt lõi trong quản lý. Việc bố trí đúng người, đúng việc, phân công phụ trách, phân bổ, quản lý nguồn lực, phân chia khu vực lao động trên công trường là yếu tố quyết định thành công của công trình. Thành công trong xây dựng hồ Kẻ Gỗ để lại bài học quan trọng về tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước; về công tác lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý điều hành trên thực tế.
Tinh thần đoàn kết, đề cao kỷ luật, phát huy sáng tạo trong lao động, sản xuất. Quá trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa phát huy dân chủ, đoàn kết với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, yếu tố quan trọng để phát huy sức mạnh Nhân dân trong toàn tỉnh và lực lượng lao động trên công trường tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối liên minh Công - Nông - Trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy tính sáng tạo trong lao động, sản xuất, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn, nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình.
Vượt khó, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh tiếp tục vươn lên
Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, ý chí, quyết tâm vượt gian khó và từ những bài học kinh nghiệm đúc rút trong quá trình xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, hơn 45 năm qua, nhất là sau khi tái lập tỉnh (1991), Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh luôn đoàn kết, ra sức thi đua lao động sản xuất, nỗ lực vươn lên đạt được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các lĩnh vực. Từ một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, đến nay, đã vươn lên đứng trong nhóm các tỉnh dẫn đầu khu vực. So với những năm đầu tái lập tỉnh, thu ngân sách tăng 1.000 lần; GDP bình quân đầu người tăng 113 lần; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới hiện nay giảm còn 2,4%. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được chú trọng , công tác an sinh xã hội được triển khai sâu rộng . Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hoạt động đối ngoại ngày càng sâu rộng, hiệu quả.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả quan trọng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được khẳng định; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường. Thực hiện chủ trương về sắp xếp tinh gọn cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được triển khai kịp thời, đúng quy định, phù hợp với thực tiễn.
Hồ Kẻ Gỗ được tu bổ qua các thời kỳ, xây dựng nhiều hạng mục công trình như Cầu vượt, Đền thờ Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đền thờ các anh hùng, liệt sỹ trong lòng Hồ, cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ mà nên thơ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, du lịch tâm linh thu hút đông đảo du khách gần xa.
Với mục tiêu xây dựng Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững, trong thời gian tới, cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị toàn tỉnh tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, quyết tâm khắc phục khó khăn, tập trung thực hiện hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận; chú trọng chọn vấn đề chiến lược, đột phá để tháo gỡ nút thắt, khơi thông “điểm nghẽn”, tạo động lực phát triển.
Thứ hai, triển khai quyết liệt, hiệu quả các chủ trương của Trung ương, của tỉnh về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập các đơn vị hành chính. Tập trung chỉ đạo rà soát, đánh giá tổng thể, chủ động xây dựng đề án, phương án, tiến hành sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ đảm bảo theo yêu cầu, tiến độ đề ra. Xây dựng chính quyền địa phương hai cấp hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ. Tiếp tục chỉ đạo sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong các cơ quan, đơn vị bảo đảm tinh, gọn, mạnh, tránh chồng chéo về chức năng, không bỏ sót nhiệm vụ. Giải quyết kịp thời chế độ, chính sách cho cán bộ nghỉ hưu trước tuổi, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động dôi dư do sắp xếp, tinh gọn bộ máy; có các phương án xử lý trụ sở, tài sản dôi dư sau khi sắp xếp tổ chức, bộ máy tránh lãng phí.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy và chính quyền các cấp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Ứng dụng công nghệ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; xây dựng lộ trình đưa toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo đảm liên thông, đồng bộ; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài phục vụ các ngành, lĩnh vực chủ chốt thúc đẩy sự phát triển. Phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, trí tuệ, bản lĩnh con người Hà Tĩnh. Chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, văn hóa công sở. Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, công chức, viên chức làm việc, cống hiến, phát triển.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững; khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, nhất là nguồn lực trong Nhân dân; đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, tạo mọi điều kiện để các dự án trọng điểm hoàn thành và đi vào hoạt động, tạo động lực tăng trưởng mới, bổ sung nguồn thu ngân sách. Đẩy mạnh liên kết vùng, cơ cấu lại không gian phát triển; lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, trọng tâm là chuyển đổi số làm động lực chủ yếu. Nâng cao năng suất, giá trị sản xuất nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò khu vực kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thứ năm, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, dòng họ, làng xã, trường học, công sở, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục và đào tạo; chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Khai thác các giá trị, di sản văn hóa, nhất là các di sản được UNESCO vinh danh; phát huy giá trị của hồ Kẻ Gỗ, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn để phát triển du lịch, dịch vụ. Tiếp tục huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực đảm bảo an sinh xã hội; đẩy mạnh chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát; thực hiện tốt các chính sách với người có công; hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người nghèo.
Thứ sáu, tiếp tục củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường, củng cố mối quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với các địa phương nước bạn Lào; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại gắn với quảng bá hình ảnh, xúc tiến đầu tư và thương mại.
Hòa chung vào những đổi thay to lớn, mang tính lịch sử của dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống văn hóa, cách mạng của quê hương, tinh thần kiên cường, vượt khó và những kinh nghiệm huy động sức dân trong xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh nỗ lực, quyết tâm cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thịnh vượng và phát triển.
Nguyễn Duy Lâm
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Đền thờ các anh hùng liệt sỹ tại Hồ Kẻ Gỗ (huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) là công trình tâm linh để tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ sân bay dã chiến Libi cùng tuyến đường chiến lược 22 trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngày 23/7/2024, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị Tri ân người có công với cách mạng năm 2024 và ra mắt Ngân hàng gen (ADN) liệt sĩ chưa xác định được thông tin và thân nhân liệt sĩ.
Trang 1 / 3